Cái phần đầu Thầy cũng đã nói sơ qua về cái thế giới của 12 nhân
duyên nhưng mà Thầy cũng chưa nói rõ chi tiết các duyên còn lại.
Thầy đã chỉ rõ về cái Minh rồi, nó cụ thể rõ ràng rồi, khi mà có
Minh rồi thì chúng ta mới bắt đầu để mà mình tu tập trên cái Minh này này, để
từ đó nó đưa đến đoạn diệt các lậu hoặc. Khi nó đoạn diệt các lậu hoặc, thì
ngay cái thân hiện tại này, gọi là cái thân ngũ uẩn của mình sẽ chấm dứt luân
hồi sanh tử và nó sẽ được nhập Niết Bàn và hóa sanh Niết Bàn ngay tại cái hiện
tại của chúng ta luôn.
Cho nên đức Phật thường nói đó “Pháp ta thiết thực,
hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có quả tức thời” là ý
nghĩa đó. Mà chúng ta phải hiểu cái Pháp của Phật khi tu nó không có chờ cái
thời gian nữa. Khi mà chúng ta đã giác ngộ ra cái Chân lý Tứ diệu đế, mà trong
đó chúng ta đã giác ngộ ra cái sự thật, cái Chân lý thứ 3 đó là diệt đế, nó là
pháp thiết thực hiện tại. Nếu trong cái hiện tại này chúng ta có Minh, chúng ta
liễu tri ra các pháp như thật. Rồi từ đó chúng ta đừng có hành động theo những
cái điều bất thiện. Rồi chúng ta thấy được các pháp vô thường, là nhân quả
duyên hợp duyên tan. Từ đó mà chúng ta không có chấp thủ vào các pháp nơi cái
thân tứ đại của mình. Từ đó mà chúng ta xả hết các pháp thì ngay đó là chúng ta
sẽ tương ưng vào trạng thái Niết Bàn ngay hiện tại liền.
Đó, như vậy rằng cái duyên khởi đầu tiên mà Phật dạy chúng ta là
sở dĩ chúng sinh bị trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi vô lượng kiếp là bắt nguồn
từ Vô Minh. Do Vô Minh mà chúng sinh lầm chấp, tham đắm, chạy theo các dục của
nó. Các dục đây là gì? Là chỉ cho tham, sân, si, mạn, nghi mà trong cái
12 nhân duyên thì đức Phật cho đó là hành. Vô Minh duyên hành, hành ở
đây chỉ cho là cái nghiệp lực tham, sân, si, mạn, nghi của mình, nó là hành.
Nếu mình Vô Minh, mình không biết mình hành theo các dục này từ đó nó tương ưng
tái sinh trong thế giới sáu nẻo luân hồi của nó. Như vậy rằng là cái hành đây
là chúng ta hiểu rằng nó là nhân quả, nó là nghiệp lực mà nó bắt nguồn từ cái lòng
ham muốn gọi là tham, sân, si, mạn, nghi, chỉ cho tam độc. Do Vô Minh mà chúng
ta để cho tam độc này, cái tham, sân, si, mạn, nghi này nó hoạt động và từ đó
nó sống trong các dục của nó. Như vậy rằng, cái hành ở đây chỉ cho nghiệp lực
nhân quả.
Kế đến thức, cái thức ở đây là chỉ cho là cái nhận biết và chúng
ta cũng xem rằng cái thức này là ông chủ. Ông chủ này nó Vô Minh thì nó sinh ra
sự chấp thủ của nó, gọi là tự ngã. Cái thức đây là gì? Là chỉ cho cái biết của
chúng ta, gọi là ý thức của mình đó, chỉ cho ý thức cái biết của
mình, nó là ông chủ, ông chủ này mà Vô Minh mà không có nhìn ra các pháp như
thật thì ông chủ này này tham đắm chạy theo nghiệp lực của nó. Thí dụ bây giờ
có một người đến khen mình hoặc là chê mình, đó là hành đó, nó là nghiệp lực
mà. Cái lời khen tiếng chê này bắt nguồn từ đâu? Là do Vô Minh quá khứ mình
tạo. Do lúc trước mình Vô Minh mình tạo, khiến hôm nay môi trường nhân quả
duyên hợp nó sẽ tác động cái thân nhân quả ngay hiện tại liền. Cho nên đức
Phật có nói “chúng sinh, sinh ra từ nhân quả, sống trong nhân quả và chết về
nhân quả” là ý nghĩa đó. Những các hành gì nó đang chi phối, đang tác động
trên cái thân ngũ uẩn ngay hiện tại mà chúng ta sống đó là do Vô Minh, do tham,
sân, si nghiệp lực trước đó mình tạo nên.
Cho nên cái hành này nó phản ảnh 3 thời gian phải không? Quá khứ,
hiện tại và vị lai. Do Vô Minh, quá khứ mình tạo nên tham, sân, si. Thì trong
cái hành này nó có 3 cái hành: thân hành, khẩu hành và ý hành. Nó tạo nên cái thế
giới nghiệp lực nhân quả của nó thông qua 3 cái thân hành của mình đó là: thân
hành, khẩu hành và ý hành.
Như vậy rằng là những cái nghiệp lực hiện tại mà chúng ta đang bị
nó chi phối, tác động là do Vô Minh các hành nghiệp quá khứ nó tác động. Và khi
nó tác động, nếu lúc này cái thức của mình nó tiếp tục Vô Minh nữa, nó chấp thủ
những cái lời khen tiếng chê của người ta, rồi nó sinh ra cái sự tham đắm hoặc
là nó sinh ra cái tâm buồn bực, hờn trách thì đó là cái hành của hiện tại. Do
Vô Minh thì cái thân hiện tại này nó tiếp tục để mà nó chấp thủ vào cái hành
của hiện, tại từ đó mà nó tham đắm, từ đó mà nó đau khổ, từ đó mà nó giận hờn,
từ đó mà nó tham, sân, si, mạn, nghi của nó, từ đó mà nó tạo nên cái hành mới,
từ đó nó duyên hợp tái sanh cái thân nhân quả mới chỉ cho cái danh sắc.
Như vậy rằng là cái thức ở đây chỉ cho cái biết, chỉ cho ý thức
của mình, gọi là ông chủ, cái thức của chúng ta nó là ông chủ. Theo như bên
duy thức học người ta cho rằng cái thức là kho chứa nghiệp, rồi từ kho chứa
nghiệp này này cái thức nó đi tái sinh, người ta hiểu chưa có thông suốt chỗ
này. Cái thức ở đây nó là ông chủ, cái thức ở đây chỉ cho cái biết, chỉ cho ý
thức của mình, vì vậy trong bài kinh Pháp Cú đức Phật có dạy chúng ta “Ý
làm chủ, ý tạo tác, ý dẫn đầu các pháp” phải không?
Mọi pháp đều do ý chúng ta tạo tác, nếu ý chúng ta nó Vô Minh, nó
hành động theo cái hành của nó, hành của nghiệp trước đó thì nó sẽ tạo nên cái
chấp thủ, tạo nên cái sự tham đắm. Từ cái duyên chấp thủ tham đắm này mà nó tạo
thành cái duyên mới để mà nó tương ưng tái sanh cái thân nhân quả tương lai,
chỉ cho cái danh sắc. Như vậy rằng, nếu mà cái ý của mình nó có Minh, nó giác
ngộ ra cái sự thật chân lý của nó, sự thật của khổ, sự thật nguyên nhân của
khổ, sự thật của trạng thái diệt khổ và sự thật con đường đưa đến diệt khổ. Nếu
mà ý thức này nó có Minh thì nó sẽ dừng lại tức khắc liền. Khi nó dừng lại thì
cái thế giới đau khổ, duyên hợp, cái thân nhân quả mới nó sẽ không còn nữa, có
nghĩa là cái danh sắc nó không còn. Khi Vô Minh diệt thì Hành nó diệt, phải
không? Khi Hành nó diệt là chỉ cho nghiệp lực của mình nó không tác động trên
cái thức này. Nó do Minh mà nó có. Nó dừng lại mọi cái sự tham đắm, tham, sân,
si, mạn, nghi của mình thì ngay đó thì cái Thức của mình nó diệt. Khi cái Thức
mình diệt thì cái Danh Sắc diệt, cái Danh Sắc chỉ cho cái thân nhân quả kế tiếp
nó không còn.
Như vậy rằng là cái ý thức của chúng ta nó là cái biết, nó là ông
chủ. Chứ không phải từ nào giờ bên Duy thức học, người ta cho rằng thức nó là
cái kho chứa nghiệp. Cái thức này nó sống này, nó tạo nên cái hành của nó, nó
chứa vào cái A lại da thức hoặc là Mạc na thức. Người ta cho rằng nó có một cái
thức thường hằng, nó giữ lại cái hành động nghiệp này. Từ đó cái thức này nó đi
tái sanh, người ta gọi là nghiệp thức, cái thức nó đi tái sinh, đó là hết sức
là lầm lạc. Từ nào giờ bên Duy thức học do người ta không có giác ngộ ra bốn chân
lý Tứ diệu đế như thật này mà người ta hiểu cái pháp trong cái 12 nhân duyên
nó sai hết. Từ đó mà nó tạo nên cái thế giới siêu hình, linh hồn. Từ cái chỗ
mà căn bản cái Duy thức học mà người ta định hướng trong cái hiểu sai về cái
thức trong cái 12 nhân duyên như vậy mà nó tạo nên thế giới siêu hình ngoài cái
thế giới của con người. Trong khi Phật dạy chúng ta thế giới 12 nhân duyên bắt
nguồn từ Vô Minh. Từ đó mà nó hành động theo cái nghiệp lực nhân quả tham,
sân, si của nó, mà nó sẽ tương ưng tái sanh sáu cái trạng thái luân hồi chỉ cho
cõi trời, cõi người, a tu la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh ngay nơi cái thân
hiện tại này.
Thì như vậy rằng là ngay cái Thức này, ngay cái Thức trong cái 12
nhân duyên là nó phản ảnh để mà nó sẽ thọ cái quả báo trong sáu cái trạng thái
luân hồi từ nơi cái thức này. Như vậy rằng là cái thế giới để mà chuyển luân
trong sáu nẻo luân hồi do cái thức của chúng ta. Nó đảm trách cái vị trí chủ
đạo trong sáu trạng thái luân hồi này. Ngoài ra nó không có một cái thức siêu
hình để mà nó tương ưng tái sanh trong cõi trời siêu hình phải không. Mà từ nào
tới giờ bên Duy thức học người ta lầm tưởng nó có cõi giới siêu hình, cõi trời siêu
hình phải không, cõi địa ngục siêu hình, cõi ma, cõi quỷ. Do người ta hiểu sai
cái thế giới 12 nhân duyên này và không có giác ngộ ra 4 chân lý Tứ diệu đế như
thật này, người ta ngộ nhận ra cái Chánh pháp của Phật. Từ đó người ta tưởng
giải ra có cái thế giới siêu hình, có thế giới linh hồn. Rồi cái thức của mình
hằng ngày nó hành động cái nghiệp lực của mình từ đó rồi nó chứa vào cái nhân
quả trong cái thức, từ đó cái thức nó đi tái sinh - người ta hiểu là lầm lạc
như vậy.
Vì vậy mà đức Phật có dạy chúng ta đó: 5 uẩn này cũng là
pháp hữu vi, pháp vô thường thôi. Khi 5 uẩn này nó hoại diệt thì các
thức, các uẩn trên đây nó sẽ hoại diệt luôn và nó không còn một cái
thức, một cái uẩn nào ngoài cái thân tứ đại này ra mà nó chỉ còn lại cái
nghiệp lực nhân quả của chúng ta thôi. Do chúng ta Vô Minh chúng ta hành
động theo các dục tham, sân, si, mạn, nghi của mình. Mà từ đó cái dục
này, cái nghiệp lực này nó tương ưng, nó tái sanh thành một cái thân
nhân quả mới. Mà khi nó tái sanh thành một cái thân nhân quả mới thì
nó sống với cái Thức thân nhân quả mới. Thân nhân quả mới là do cha
mẹ tạo ra cái thân nhân quả này, và chúng ta sẽ tương ưng vào với cái
thân nhân quả của cái thân nhân quả này mà sống mà thọ quả báu mà trước
đó mình đã tạo. Cho nên những gì Phật dạy chúng ta là nó nằm ngay
cái thân tứ đại này.
Thì hôm qua Thầy có nói sơ qua về các thế giới đó, thế giới quan
và vũ trụ quan là nó nằm nơi cái thân tứ đại này. Nói chung là do Vô Minh mà
chúng ta khởi lên sự tham đắm, ưa thích từ đó mà nó duyên hợp, nó sẽ tương ưng,
nó chuyển luân trong sáu cái trạng thái luân hồi. Mà sáu cái trạng thái luân
hồi này nó phản ảnh trên cái thức, trên cái biết của chúng ta. Nếu mà chúng ta
hằng ngày chúng ta sống chịu đau khổ trước những cái nhân quả của nó như là
bệnh tật, rồi chúng ta bất an, bất toại nguyện trước mọi hoàn cảnh xấu - đó là
chúng ta đang tương ưng vào trạng thái địa ngục ngay cái hiện tại luôn, chứ
không phải chúng ta chết rồi chúng ta mới về cái cõi địa ngục siêu hình để mà
chúng ta thọ quả báo.
Do Vô Minh, do chấp thủ chúng ta chấp vào những điều bất thiện.
Rồi chúng ta chấp vào cái nhân quả của mình. Hằng ngày chúng ta sống chịu đau
khổ trước những cái nhân quả của nó như là bệnh tật. Rồi chúng ta bất an, bất
toại nguyện trước các hoàn cảnh xấu. Trong khi Phật dạy mình “Tất cả các
pháp nó đều là vô thường, không có pháp nào là ta, là của ta là bản ngã của
ta”. Do Thức của mình nó Vô Minh như vậy mà nó lầm chấp, nó tham đắm mọi
cái dục lạc của nó mà nó tạo nên cái tự ngã. Là vì các pháp bản chất nó vốn
không có tự ngã. Nó không có ngã sở. Sở dĩ mà chúng ta có tự ngã, có ngã sở là
do cái thức của mình nó Vô Minh, nó lầm chấp, nó dính mắc vào các nghiệp lực
nhân quả của nó mà từ đó nó tương ưng vào 6 cái trạng thái luân hồi này.
Một người mà giận dữ trước những cái hành nghiệp nhân quả của mình
sân, si thì cái người ấy tương ưng và hóa sanh, an trú trong thế giới của A tu
la đó, thì nó nằm nơi cái thức của chúng ta luôn. Hoặc là cái người ấy hằng
ngày họ giết hại chúng sinh, họ ăn thịt chúng sinh không có thương tiếc, không
có tâm tàm quý thì ngay đó cái Thức của họ nó sẽ tương ưng và hóa sanh trong
cái thế giới của súc sinh, gọi là cõi súc sinh đó. Hoặc là chúng ta là người
tốt, là người lương thiện, sống có lương tâm, có tâm tàm quý, sống có lòng từ
không có ác thì ngay đó chúng ta sẽ được tương ưng và hóa sanh trong cái thế
giới loài người. Rồi hằng ngày chúng ta biết giữ gìn 5 giới, tu tập những cái
điều thiện, 10 điều lành. Hằng ngày chúng ta biết thương yêu và tha thứ, không
có giận hờn, không có phiền não, không có oán trách, không có ganh ghét, không
có đố kỵ, không ích kỷ, biết từ bỏ cái tâm xan tham của mình, lòng ham muốn của
mình. Hằng ngày chúng ta sống như vậy thì ngay đó chúng ta sẽ được tương ưng và
hóa sanh cái trạng thái của thiên giới gọi là cõi trời ngay nơi cái thức mà
chúng ta đang sống.
Nơi cái thức này, nếu chúng ta giác ngộ ra 4 chân lý Tứ diệu đế
như thật. Chúng ta hành con đường đạo đế hướng đến diệt ngã, xả tâm, ly dục ly
ác pháp để mà không còn chấp thủ các dục lạc ở đời. Và cũng như là không có
chấp thủ những cái gì mình chứng, mình đạt được nơi cái sự tu tập của mình thì
ngay đó là chúng ta hướng đến là đoạn diệt các lậu hoặc. Là không còn dục lậu,
không còn hữu lậu, không còn vô minh lậu thì ngay đó là chúng ta sẽ được tương
ưng và hóa sanh trong cái trạng thái Niết Bàn vĩnh cửu luôn, từ nơi cái thân tứ
đại này luôn, từ nơi cái thức mà chúng ta đang sống.
Như vậy rằng là, cái Thức trong 12 nhân duyên nó là cái ông chủ,
phải không. Nếu mà nó có Minh thì nó hướng cho chúng ta đi về con đường an lành
từ cõi người cho đến cõi trời. Và hướng cho chúng ta để mà chấm dứt luân hồi
sinh tử luôn, từ nơi cái thức này. Như vậy rằng là cái Thức này nó đảm nhiệm
vai trò chủ đạo. Nếu mà nó Vô Minh thì nó hành động theo các dục của nó, sự
tham đắm của nó, chấp thủ của nó thì nó sẽ tương ưng và hóa sanh trong
sáu cái trạng thái luân hồi này. Như vậy rằng là chúng ta bị tương ưng và tái
sanh trong sáu trạng thái luân hồi là do nghiệp lực. Là do cái ý thức của mình
nó Vô Minh nó hành động theo cái tham, sân, si của nó mà nó tạo tác nên cái
nhân quả này để mà nó duyên hợp. Nó tạo thành cái danh sắc, cái danh sắc ở đây
là chỉ cho cái thân ngũ uẩn, cái thân tứ đại của chúng ta đó. Cái sắc chỉ cho
là 6 cái giác quan của mình đó mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý.
Phật tử hỏi: Cái danh sắc mình cũng có thể
gọi là cái thân, cái tâm luôn thưa Thầy?
Đúng rồi, nó là thân tứ đại. Cái danh sắc nó chỉ cho thân ngũ uẩn
mà trong đó nó gồm cả thân và tâm. Tâm chỉ cho cái biết, trong đó có ý thức
nữa. Cái ý thức là cái biết, cái tâm ở đây chỉ cho 6 cái thức của mình gọi là
thức nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Nó chỉ chung
cho sáu cái biết của mình, thì trong đó ý thức của mình nó cũng là thức, nó
cũng là tâm phải không? Thì như vậy rằng là chỉ có ý thức của mình nó mới làm
chủ thôi.
Vì vậy mà con người chúng ta khác biệt các loài thú, động vật khác
do chúng ta có cái ý này này. Con vật cũng có cái thân ngũ uẩn, nó cũng có 6
cái thức của nó, nhưng mà nó không có ý thức. Nói chung con vật nó cũng có
6 cái trạng thái luân hồi của nó. Nó cũng sống trong cái nghiệp lực nhân quả
nhưng mà nó không làm chủ tại vì nó không có ý thức, phải không? Nó sống bằng
cái nghiệp lực Vô Minh của nó. Cho nên, loài vật thì nó không có tu tập được.
Nó không có pháp hành được. Nó không có hiểu về nhân quả thế giới duyên hợp đau
khổ. Cho nên chỉ có con người chúng ta mới có trí tuệ, chúng ta mới tu tập
được. Như vậy rằng là cái ý thức chúng ta hiểu nó rằng đó là trí tuệ của mình.
Cho nên từ nào giờ người ta không có hiểu chỗ này. Từ đó người ta tu những cái
pháp để người ta diệt ý thức đi, người ta diệt trí tuệ của mình đi và từ đó
tưởng thức nó hoạt động. Khi tưởng thức nó hoạt động thì nó không làm chủ, nó
sẽ hành động theo các dục của nó.
Đó, vì vậy cái danh sắc ở đây là gì? Là chỉ cho cái thân tứ đại.
Do cái đầu tiên là do cái thức, cái thân nhân quả trước đó chúng ta Vô Minh,
chúng ta tạo nên cái sự tham đắm để mà nó duyên hợp nó tạo nên cái thân
tứ đại này là như vậy.
Cái sắc nãy giờ Thầy nói rồi phải không, là chỉ cho sáu cái giác
quan mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý còn cái danh chỉ cho cái tâm thức của mình,
trong kinh Đức Phật gọi rằng là thọ, tưởng, tư, xúc và tác ý.
- Thọ là chỉ cho cảm thọ trên sáu cái giác quan mà chúng ta đang
tiếp xúc trên cái thân ngũ uẩn của mình, chỉ cho là thọ lạc, thọ khổ, bất lạc
bất khổ.
- Tưởng ở đây chỉ cho là thế giới của tưởng, thế giới của sắc
tưởng phải không. Thế giới của tưởng uẩn, những năng lực của tưởng, của các
nhà ngoại cảm hoặc là các nhà tu hành có được những năng lực thần thông này - nó
đều hoạt động trên thế giới của tưởng uẩn này gọi là tưởng. Mộng mị chiêm bao
nó cũng là tưởng. Các sắc tưởng nó cũng nằm trên cái thế giới của tưởng uẩn
này, thì nó thuộc về những cái năng lực siêu hình. Nếu mà trong cái tưởng này
nó hoạt động theo cái dục của nó, sự tham đắm của nó mà từ đó nó cũng sẽ
đưa đến tái sinh luân hồi.
- Thọ, tưởng, tư – Tư có nghĩa là những cái tư niệm của mình,
những cái suy nghĩ của mình, hàm ý của mình gọi là tư.
- Thọ, tưởng, tư, xúc – Xúc là chỉ cho cái cảm xúc. Khi trên sáu
cái giác quan của mình, mình tham đắm chạy theo các dục trên sáu pháp trần của
nó sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp thì tất cả những cái điều đó nó đều phản
ảnh trên cái xúc.
- Thọ, tưởng, tư, xúc và tác ý – tác ý chỉ cho những cái ý của
mình. Nó điều khiển, hành động trên cái thân ngũ uẩn của mình phải không. Cái ý
mình muốn làm cái điều gì nó hướng ra, tác ý ra nó chạy theo cái dục tham đắm
của nó gọi là tác ý. Nó đều do nơi cái tâm của mình tạo ra.
Còn cái sắc là chỉ cho sáu cái giác quan của chúng ta, gọi là sáu
căn mà nó tiếp xúc với sáu trần gọi là sắc, cái danh sắc là chỉ cho cái thân
ngũ uẩn của chúng ta.
Vì vậy mà khi mà trên cái thức này nếu mà nó có Minh, nó có trí
tuệ thì nó sẽ không hành động theo cái nghiệp lực nhân quả nó đang tác động, nó
không còn tham, sân, si, mạn, nghi nữa thì ngay đó là cái danh sắc này nó dừng
lại liền. Là chỉ cho cái thân nhân quả mới nó không còn nữa đó. Chúng ta phải
hiểu như vậy đó. Nếu mà ngay cái hiện tại này cái thức của chúng ta nó có trí
tuệ, nó không có hành động theo cái nghiệp lực nhân quả của nó thì ngay đó là
nó dừng lại. Và khi nó dừng lại thì nó không còn duyên hợp để mà nó tạo thành
cái thân nhân quả mới, thì ngay đó cái danh sắc nó không còn.
Thứ năm là lục nhập, lục nhập chỉ cho sáu cái căn của mình. Trên
cái danh sắc này nó tiếp xúc với sáu cái pháp trần chỉ cho sắc, thinh, hương,
vị, xúc, pháp gọi là lục nhập. Lục nhập chỉ cho sáu cái giác quan của mình mắt,
tai, mũi, miệng, thân, ý nó tham đắm sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Và khi
mình khởi lên cái sự tham đắm thì nó sẽ sinh ra cái xúc. Ví dụ mắt của mình nó
nhìn thấy cảnh vật đẹp, nó khởi lên sự ưa thích đó là xúc rồi. Hoặc là tai mà
nó nghe âm thanh, tiếng hay nó khởi lên sự ưa thích, tham đắm đó là xúc. Hoặc
là mình nghe những điều không có ưa thích khởi lên cái sự bực dọc, khó chịu
cũng là xúc – nó thuộc về là khổ đấy. Nói chung là cái xúc ở đây nó phản ảnh
trên cái sáu pháp trần chỉ cho là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.
Phật
tử hỏi:
Ngay cái chỗ lục nhập rồi xúc, theo như qua sự giảng giải của Thầy thì cái
danh sắc là sáu căn, cái lục nhập là sáu trần, cái xúc này là sáu thức, tức là
nó có cái căn, sáu trần rồi nó có xúc chạm, sự xúc chạm là cái thức, cái thức,
biết được cái đó là thức. Đắng, cay, mùi vị mình thích hay mình ghét, hay gì đó
là cái xúc chạm của cái sáu thức phải không ạ?
Nói chung là cái xúc ở đây nó phản ảnh trên cái sáu cái pháp trần
chỉ cho là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp gọi là nhãn thức, nhĩ thức, tị
thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Nó chỉ chung cho sáu cái biết của mình.
Những cái phần về sau từ chỗ lục nhập cho đến cái xúc, thọ, ái, thủ, hữu thì
nó thuộc về cái dục rồi. Nó thuộc về khuynh hướng của cái lạc, tham đắm cái
dục của nó rồi. Cái năng lực để tạo nên thế giới duyên hợp tái sinh luân hồi
nó từ chỗ này này. Nếu chúng ta Vô Minh mà chúng ta để cho cái Danh Sắc nó
tiếp xúc với sáu trần nó sinh ra cái Lục Nhập và nó tham đắm và từ đó nó sinh
ra cái Xúc, chỉ cho là sáu cái xúc luôn. Mắt mình nó tiếp xúc với cái sắc gọi
là xúc. Tai mình nó tiếp xúc với cái thinh cũng gọi là xúc. Mũi của mình nó
tiếp xúc với mùi hương, mùi thơm, mùi thối cũng là xúc. Cái lưỡi mình nó nếm vị
ngon dở cũng là xúc. Hoặc là thân mình nó cảm xúc nóng lạnh, ưa thích nó cũng
là xúc. Ý của mình nó khởi lên những cái niệm ưa thích, vui hoặc là buồn khổ
nó cũng là xúc luôn. Như vậy là cái xúc nó phản ảnh trên sáu cái giác quan của
chúng ta qua sáu cái pháp trần. Vì có sáu cái pháp trần mà nó có cái xúc. Nếu
mà nó không có sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp làm gì nó có xúc được. Nó phải
có Lục Nhập chỉ cho sáu pháp trần mà từ đó nó có sáu cái xúc này.
Từ cái Xúc này mình mới sinh ra cái Thọ. Khi mình tiếp xúc nó sinh
ra sự thích thú của nó chỉ là thọ, trong cái thọ này nó gồm có 3 cái thọ - thọ
lạc, thọ khổ, bất lạc bất khổ phải không. Nói chung là 3 cái thọ nó phản ảnh
qua 6 cái pháp trần chỉ cho là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.
Thí dụ bây giờ mình nghe người ta khen mình, tán thán mình, mình
cảm thấy mình ưa thích gọi là lạc - thọ lạc. Hoặc là mình nghe người ta chê
mình, chửi mắng mình, xúc phạm đến mình, thì nó làm cho nơi cái tai của mình nó
cảm thấy nó khổ, nó buồn giận gọi là thọ khổ phải không - thọ khổ. Còn bất lạc
bất khổ có nghĩa rằng là trước cái lời khen tiếng chê chúng ta không có buồn,
không có giận, đó là bất lạc bất khổ. Nhưng mà nếu chúng ta không thấy nó là vô
thường, nó là pháp sanh diệt thì chúng ta vẫn là Vô Minh lậu luôn. Cảm thọ bất
lạc, bất khổ chỉ cho là khi tâm của chúng ta nó tiếp xúc với mọi pháp như vậy
mà nó không có vui buồn gọi là bất lạc, bất khổ. Nhưng mà nếu nó không thấy
được cái sự thật, cái pháp xung quanh mình nó là pháp vô thường, nó là pháp sanh
diệt, nó không có pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta thì cái trạng
thái bất lạc, bất khổ thọ này nó cũng nằm trong cái Vô Minh lậu luôn. Thì như
vậy rằng là cái thọ đây nó phản ảnh trên 3 cái thọ - thọ lạc, thọ khổ, bất lạc
bất khổ. Ba cái thọ nó phản ảnh qua 6 cái pháp trần chỉ cho là sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp.
Thứ tám là ái, ái chỉ cho cái sự ưa thích, chỉ cho cái tâm quyến
luyến, mình không có bỏ được. Thí dụ như giờ mình uống một ly nước ngọt mình
cảm thấy nó ngon, nó thích thú mình lưu luyến cái vị đó, nó không có lìa được
cái vị đó gọi là ái. Ái ở đây là chỉ cho cái sự tham đắm. Nó nhớ cái cảm giác
của cái thọ gọi là ái. À chúng ta hiểu đây chính xác cái từ nó nhớ cái cảm thọ
của nó, mà nó không có bỏ được gọi là ái, gọi là ái kiết sử. Ái kiết sử mà Phật
có dạy chúng ta, nó ái kiết sử với 6 cái giác quan của nó qua 6 cái pháp trần
chỉ cho là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Tai mình nó nghe người ta khen
mình rồi mình dính mắc, mình ưa thích cái lời khen đó mình không từ bỏ được gọi
là ái kiết sử. Hoặc là mình có những cái đồ vật gì đó mình giữ nó mình thích
thú nó, mình lìa nó thì nó làm cho mình khổ sở gọi là ái kiết sử. Hoặc là người
thân trong gia đình của mình, con cháu, cha mẹ, vợ chồng, anh em hằng ngày mà
chúng ta không có lìa nó ra, khi mà chúng ta lìa ra nó làm cho chúng ta nhớ
thương, đau khổ gọi là ái kiết sử. Cái sử nó có nghĩa rằng trói buộc, nó trói
buộc cái sự đau khổ trong cái các pháp vô thường ấy gọi là ái kiết sử.
Nói chung cái ái kiết sử nó thể hiện qua người và vật, người là
chỉ cho những người xung quanh của mình từ cha mẹ, ông bà, anh em, dòng họ,
thầy cô, huynh đệ, bạn đạo... tất cả nếu mà nó còn nhớ thương theo cái tâm phàm
phu mà nó không có trí tuệ, nó không có hiểu biết sự vô thường của các pháp
duyên hợp, duyên tan thì cái tình thương này, cái nhớ thương này nó thuộc về ái
kiết sử hết, nó trói buộc. Chỉ có cái lòng từ thì nó mới giúp cho chúng ta dừng
lại cái ái kiết sử này thôi, để mà đoạn lìa cái ái kiết sử này thì chúng ta
phải tu tập cái pháp tứ vô lượng tâm thì chúng ta mới đoạn lìa cái ái kiết sử
này.
Đó như vậy là cái ái đây là chỉ cho ái kiết sử đó, chỉ cho sự
quyến luyến, nhớ thương, thích thú những cái gì mà chúng ta đã sống với nó,
tiếp xúc với nó, nó khởi lên cái ái như vậy đó. Mà cái chính là Thủ, có nghĩa
là chúng ta nắm giữ.
Phật tử hỏi: Thưa Thầy Thủ hay Hữu cái chỗ này Trưởng lão đổi rồi
đó, thường thì là Thủ thì mới Hữu, nhưng mà sau này đổi lại Hữu rồi mới Thủ. Dạ
theo Thầy thì Thầy thấy như thế nào? Nó xuôi theo con đường đó.
Đúng ra thì cái Hữu mà Thủ đều là đúng hết, hai cái này là hai cái
mặt tương đối nó gần nhau thôi, mình hiểu làm sao nó cũng đúng. Cái Thủ cũng
đúng, nó có Thủ thì nó mới Hữu phải không? Mà nó có Hữu thì nó mới có Thủ. Có
nghĩa là có cái Thủ trước cũng được, cái Thủ có nghĩa là mình nắm giữ đó. Thí
dụ bây giờ người ta cho mình cái vật đó là mình giữ đó là thủ. Rồi mình về mình
cất mình sử dụng cho mình, đó là hữu. Như vậy là khi mà cái ái của mình nó tiếp
xúc với cái pháp, với cái thọ của nó từ đó nó sinh ra cái chấp giữ. Thí dụ bây
giờ mình nghe người ta khen mình rồi mình nhớ cái lời khen của người ta rồi
mình không có bỏ được - nó là thủ đó, phải không?
Rồi hằng ngày mình về mình sống với cái thủ này, mình nắm giữ mình
không bỏ được. Nói chung cái thủ đầu tiên nó do ái, nó quyến luyến từ đó nó mới
giữ được sự quyến luyến này gọi là thủ. Hoặc là người ta đến người ta chê mình
rồi mình bực dọc, mình khó chịu, mình cũng chấp thủ những cái điều người ta chê
mình. Cái thủ ở đây là chấp thủ đó, chúng ta dùng cái từ gọi là chấp thủ. Do Vô
Minh mình chấp thủ các pháp, mình giữ nó, mình không có bỏ được. Đó, có nghĩa
rằng là hằng ngày lúc nào mình cũng nhớ những cái điều người ta chê bai mình,
mình nhớ lại cái lời đó nó làm cho mình khổ gọi là thủ đó - thủ là mình nắm giữ
cái điều đó mình không có bỏ được.
Kế đến là, cái phần thứ mười là Hữu phải không? Hữu là mình sở hữu
cái điều đó. Hằng ngày mà chúng ta tham đắm, nghe người ta khen mình hoặc chê
mình, rồi hằng ngày chúng ta chấp vào đó, không bỏ được, khi mà gặp cái người
đó thì chúng ta cảm thấy mình không ưa thích, mình không muốn gần người đó. Do
mình chấp hữu, mình không có từ bỏ được cái niệm đó gọi là hữu. Mình giữ cái
niệm đó khi mà nó có đối tượng nó cảm thấy buồn, nó khổ gọi là hữu, hữu kiết sử
- Phật có dạy chúng ta đó, trong hữu kiết sử Thầy có giảng cái bài này rất là
rõ đó. Nó hữu kiết sử với 6 cái pháp trần chỉ cho là sắc, thinh, hương, vị,
xúc, pháp. Tai mà nó nghe người ta khen mình, rồi mình dính mắc, mình ưa thích
cái lời khen đó, mình không từ bỏ được gọi là hữu kiết sử. Hoặc là mình có
những cái đồ vật gì đó, mình giữ nó, mình thích thú nó, mình lìa nó thì nó làm
cho mình khổ sở - gọi là hữu kiết sử. Kiết sử nó có nghĩa rằng trói buộc. Nó
trói buộc cái sự đau khổ trong cái các pháp vô thường ấy gọi là hữu kiết sử.
Nói chung cái hữu kiết sử nó thể hiện qua người và vật. Người là chỉ cho những
người xung quanh của mình từ cha mẹ, ông bà, anh em, dòng họ, Thầy cô, huynh đệ
bạn đạo. Tất cả đều nếu mà nó còn nhớ thương theo cái tâm phàm phu mà nó không
có trí tuệ, nó không có hiểu biết sự vô thường của các pháp duyên hợp duyên tan
thì cái tình thương này nó thuộc về hữu kiết sử hết, trói buộc hết. Cái hữu
tức là mình sống với sự chấp thủ của mình, với sáu cái pháp trần sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp.
Rồi kế đến Sanh, sanh là chỉ cho sanh y. Sanh y mà hằng ngày do
cái Hữu này mà chúng ta phải sống với các pháp xung quanh của nó sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp gọi là sanh y đó. Sanh ở đây chỉ cho cái sự sống, chỉ cho
đối với các vật chỉ cho tài sản, của cải, tiền bạc gọi là danh lợi nó thuộc về
sanh y, đó là vật. Còn đối với người thì chỉ cho chúng ta sống với cái tình cảm
gia đình, chúng ta sống với người thân của mình, chúng ta sống với dòng họ của
mình, chúng ta sống với bạn bè, chúng ta sống với Thầy tổ, v.v... thì nó thuộc
về người. Nếu mà chúng ta Vô Minh, rồi chúng ta chạy theo vào các tham đắm dục
lạc ở đời gọi là tham, sân, si, mạn, nghi. Sanh y ở đây là chỉ cho cái sự sống
thông qua cái thân tứ đại của mình.
Thì như vậy rằng là từ cái chỗ mà bắt nguồn từ cái Vô Minh cho đến
cái hành, cho đến cái thức và danh sắc cho đến cái lục nhập rồi xúc, thọ, ái,
thủ, hữu, sanh thì bắt nguồn từ cái chỗ Vô Minh. Nó phản ảnh qua cái tâm tham,
sân, si, mạn, nghi của mình. Từ đó nó khởi lên sự mọi cái chấp thủ, tham đắm
cái dục lạc ở đời sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp gọi là Sanh y đó. Sanh
ở đây chỉ cho sự sống thông qua cái thân tứ đại của mình. Từ cái chỗ đó mà nó
đưa đến Lão-Tử, chỉ cho thế giới duyên hợp, vô thường sinh diệt của nó. Rồi
cuối cùng cũng đến cái ngày chúng ta cũng phải ra đi thôi.
Cho nên cái thân tứ đại này, những gì mà chúng ta sống, những gì
mà chúng ta ưa thích, tham đắm nó đều là những cái năng lực nghiệp lực nhân quả
của mình gọi là tham, sân, si, mạn, nghi. Chúng ta sống với những nghiệp lực
này, từ nó mà nó duyên hợp nó sẽ tái sanh một cái thân nhân quả mới thôi. Rồi
cái thân này đến lúc thì cũng phải già bệnh chết chấm dứt cái thân
tứ đại này, chỉ cho Lão-Tử. Cái Lão-Tử ở đây chỉ cho là chúng ta sống đến
lúc thì nó cũng phải đưa đến già chết thôi. Những gì mà chúng ta sống, những gì
mà chúng ta ưa thích, tham đắm thì nó cũng phải đưa đến già chết thôi. Có nghĩa
là nó vô thường, cái thân vô thường nó cũng sẽ đưa đến già, chết. Trong cái
già, chết này nó có sầu, bi, khổ, ưu não chỉ cho cái thế giới đau khổ, nó thể
hiện qua 6 cái trạng thái luân hồi của mình gọi là cõi trời, cõi người, a tu
la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh đó.
Do cái sự tham đắm trên cái dục lạc này, trên cái thân tứ đại này,
trên cái thế giới mười hai nhân duyên này mà từ đó chúng ta luôn bị tương ưng
và trôi lăn trong trạng thái luân hồi vô lượng kiếp luôn. Còn cái thân tứ đại
của chúng ta nó là thân nhân quả, đến lúc nó cũng phải vô thường thôi, nó cũng
giống như là các pháp vô thường khác, đến lúc thì nó cũng phải là bệnh, là
già, là chết thôi. Cũng vậy cái thân tứ đại của chúng ta đến lúc nó cũng sẽ
chết thôi. Nó là sự vô thường tất nhiên của các pháp hữu vi là như vậy. Còn cái
trạng thái luân hồi của chúng ta nếu mà chúng ta Vô Minh, chúng ta không có
thấy được cái sự thật đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, không thấy được
trạng thái diệt khổ và con đường đưa đến diệt khổ thì chúng ta tiếp tục bị các
hành nghiệp nhân quả của mình nó tác động. Và từ đó chúng ta tham đắm, chấp
thủ, chạy theo các dục lạc ở đời. Từ đó mà nó duyên hợp tạo thành cái thế giới
của thân nhân quả mới để mà chúng ta tiếp tục tái sinh mãi mãi luôn trong vô
lượng kiếp luôn, không bao giờ dừng lại được.
Vì vậy trong cái bài kinh Thánh cầu, Đức Phật có dạy chúng ta điều
này “Này các Tỳ kheo, cái gì mà bị sanh, cái gì bị già, cái gì bị bệnh, bị
chết thì chúng ta đừng có tầm cầu chúng, tại vì tất cả chúng đều đưa đến là
ràng buộc, đau khổ cho cái sự luân hồi sanh tử của mình thôi”. Cho nên, Đức
Phật có hướng cho chúng ta là hướng đến đi tìm cái gì mà không bị sanh, không
bị già, không bị bệnh, không bị chết thì chúng ta tầm cầu chúng. Như vậy rằng,
cái gì mà để chúng ta không bị sanh, bị già, bị bệnh, bị chết đó là cái đời sống
Phạm hạnh. Chúng ta phải hướng đến cái đời sống phạm hạnh này, đó là bậc Đạo sư
của chúng ta. Nhờ đời sống phạm hạnh này mà nó giúp cho chúng ta hướng đến là
đoạn diệt cái bị sanh, cái bị già, cái bị bệnh, cái bị chết là như vậy. Cho nên
ý nghĩa mà trong cái phần lão, tử này là Đức Phật dạy chúng ta là “tất cả
mọi pháp nó đều đưa đến sự vô thường, sự sanh diệt của các pháp, nó không có
pháp nào là ta, là của ta, là bản ngã của ta”.
Để mà nhận thức ra cái lão tử này thì chúng ta phải giác ngộ ra
bốn Chân lý Tứ diệu đế như thật. Nhờ chúng ta giác ngộ ra bốn Chân lý Tứ diệu
đế này nó sẽ giúp cho chúng ta đoạn diệt cái bị sanh, bị già, bị bệnh, bị chết
là ý nghĩa đó.
Nếu chúng ta giác ngộ ra bốn chân lý này như thật thì hằng ngày
chúng ta phải sống đúng bốn chân lý này thì nó sẽ giúp cho chúng ta dừng lại
tất cả mọi hành động tạo tác trên cái thân tứ đại này. Và các dục của chúng ta
từ từ nó đoạn diệt. Và khi nó đoạn diệt thì ngay cái thân tứ đại này chúng ta
sẽ dừng lại luôn, không còn bị tái sinh luân hồi sanh tử nữa. Vì vậy mà Đức
Phật nói “khi Vô Minh nó diệt thì Hành nó diệt”, khi Hành nó diệt là chỉ
cho là nghiệp lực nhân quả của mình nó không còn tác động. Và khi Hành nó
diệt thì Thức nó diệt. Thức nó diệt là chỉ cho cái sự chấp thủ về cái tự ngã.
Cái thức ở đây nó thể hiện cho cái tâm chấp thủ cái tự ngã gọi là thiên chấp
tùy miên, tùy miên ngã kiến nó cũng từ nơi cái thức này. Nếu mà cái thức này nó
Vô Minh, nó sẽ chấp thủ, nó bảo vệ cái tự ngã của nó, từ đó mà nó sẽ duyên hợp,
sẽ tái sanh. Vì vậy mà khi mà hành diệt thì cái thức này nó diệt luôn, là cái tự
ngã Vô Minh này nó diệt luôn. Khi nó diệt thì cái Danh Sắc này nó không có,
cái thân tứ đại này nó không có, và khi Danh Sắc này nó không có Lục Nhập nó
không có - sáu pháp trần đó, nó không có luôn.
Và khi Lục Nhập này nó diệt. Thí dụ bây giờ chúng ta vẫn tiếp xúc
với sáu pháp trần đúng không, chúng ta đâu còn tham đắm nữa - như vậy nó diệt
rồi đó. Khi mà chúng ta có Minh, Hành nó sẽ diệt, chỉ cho là chúng ta không còn
bị tác động nơi cái hành nghiệp nhân quả của nó nữa, là hành diệt. Khi Hành
diệt thì Thức diệt, chỉ cho cái thức của chúng ta nó không còn chấp thủ
nữa trước cái nhân quả của nó nữa, gọi là thức diệt.
Khi Thức nó diệt thì cái Danh Sắc nó diệt, chỉ cho cái thân tứ đại
của chúng ta hằng ngày chúng ta sống, trên sáu giác quan của chúng ta nó không
còn tham đắm nữa, nó không còn ưa thích nữa phải không. Danh sắc có nghĩa rằng
là trên cái thân tứ đại này chúng ta làm chủ mọi sắc dục, mọi các pháp mà nó
không còn tham đắm, ưa thích nữa gọi là danh sắc nay diệt. Khi Danh Sắc diệt
thì cái Lục Nhập nó diệt. Lục nhập nó diệt là chỉ cho sáu cái pháp trần sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp nó không còn bị tác động trên cái thân tứ đại này
nữa, nó không còn tác động trên cái danh sắc nữa. Khi cái danh sắc nó diệt thì
cái lục nhập này nó cũng diệt luôn, khi lục nhập này nó diệt nó không còn tác
động trên cái danh sắc này nữa. Dù cho sắc thinh hương, vị, xúc, pháp nó
có tác động thì cái danh sắc này nó cũng bất động luôn, nó diệt rồi
phải không? Nó đã đoạn diệt cái lòng ham muốn của nó rồi, cái sự
chấp thủ của nó rồi.
Khi mà cái Lục Nhập này nó diệt thì cái Xúc nó cũng diệt luôn,
là chỉ cho sự tham đắm. Thí dụ bây giờ chúng ta ăn ngon, chúng ta biết nó ngon
nhưng chúng ta không có khởi lên cái sự tham đắm của nó như vậy là xúc diệt đó.
Hoặc là chúng ta uống một cái ly nước ngọt, chúng ta biết nó ngon, nhưng mà
chúng ta không có tham đắm nó. Hoặc là chúng ta có nghe những cái lời nói mà
chê bai, chỉ trích mà tâm của mình nó không có buồn, nó không có khổ, như vậy
rằng là xúc diệt đó. Xúc nó diệt là như vậy đó. Rồi khi mà xúc nó diệt thì thọ
nó diệt, cái cảm thọ lạc đó. Lúc này chúng ta cũng không còn ham đắm nữa khi
lúc này cái thọ của chúng ta không còn ưa thích bởi cái lời khen tiếng chê của
người kia nữa. Hoặc là chúng ta không còn tham đắm chạy theo dục lạc ở đời nữa.
Như vậy rằng là thọ nó diệt đó, và khi Thọ nó diệt thì lúc này cái
Ái nó không còn, phải không. Nó không còn ràng buộc nữa. Thí dụ bây giờ hằng
ngày phật tử chúng ta sống chung với gia đình, với mọi người nhưng mà mình sống
với trí tuệ, với cái tri kiến giải thoát mà từ đó chúng ta không có còn bị ràng
buộc trong ái nữa. Cái thọ ở đây, thí dụ như gia đình mình có hạnh phúc mà
chúng ta cũng không thấy mình vui, mình hân hoan trong cái điều hạnh phúc của
gia đình, có nghĩa rằng chúng ta vẫn sống trong cái cảm giác của hạnh phúc với
mọi người, nhưng chúng ta hiểu rằng nó cũng là pháp hữu vi, là vô thường. Do
chúng ta hiểu biết như vậy mà cái thọ này nó không có, gọi là cái ái của mình
nó không có luôn. Nghĩa rằng là chúng ta vẫn sống với gia đình, với mọi người,
sáu giác quan chúng ta vẫn tiếp xúc với các pháp trần mà nó không có sự tham
đắm, ưa thích, quyến luyến của nó. Như vậy rằng là ái nó diệt rồi, ái nó diệt
là như vậy đó.
Và khi Ái nó diệt và lúc này Thủ nó diệt luôn. Lúc này là cái thủ
nó đâu còn chấp thủ nữa phải không. Nó đâu còn chấp thủ nữa. Bây giờ người ta
có khen mình, người ta có chê mình, mình cũng chẳng có màng đến biết rằng nó vô
thường, nó là pháp sanh diệt thôi, mà từ đó trong tâm mình nó không còn giữ
những điều dính mắc này nữa. Nó không còn chấp thủ. Nó không còn dính mắc cái
gì trong tâm của mình, thì ngay đó là mình giải thoát rồi đó. Khi mà cái thủ nó
không còn trong tâm mình những điều dục lạc ở đời, hoặc là lời khen tiếng chê,
hoặc là những điều nhân quả xấu ác nó xảy ra mà chúng ta không còn chấp giữ nó
nữa.
Đối với những nhân quả xấu thì chúng ta không còn chấp giữ nó, đối
với nhân quả tốt thì chúng ta không còn chấp giữ nó, do chúng ta không còn chấp
giữ nó thì tự ngã nó không còn, tự ngã nó không còn là chúng ta không còn khổ
nữa. Và khi chúng ta không có chấp giữ thì cái thủ nó diệt phải không. Và khi
thủ nó diệt thì hữu nó diệt. Hữu nó diệt, từ nay mà chúng ta lỡ có người đó có
chê mình hoặc họ có khen mình, mình gặp họ mình cũng thấy họ bình thường, mình
cũng chẳng có vui mừng hớn hở khi mình gặp cái người khen mình. Hoặc là mình
gặp cái người chê mình, mình không có buồn, mình không có khó chịu khi mình gặp
những người xấu, cái người mà xúc phạm đến mình, vậy thì nó đâu còn hữu nữa.
Hữu nó diệt rồi. Sở dĩ mà chúng ta còn hữu là vì chúng ta còn chấp, còn thủ,
mình còn giữ cái lời khen tiếng chê của người kia mà chúng ta vẫn còn dính
mắc, vẫn còn chấp. Khi còn thủ còn chấp thì chúng ta còn đau khổ.
Vì vậy mà khi mà mình gặp cái người xấu thì chúng ta lúc nào cũng
sợ hãi và lo lắng, như vậy cái hữu mình nó còn. Còn cái hữu mình nó diệt, gặp
người xấu chúng ta cảm thấy nó bình thường, nhưng mà lòng mình lúc nào cũng tôn
trọng, thương yêu và tha thứ cái người họ có xúc phạm đến mình, hoặc là họ làm
những điều xấu, ác đến mình, như vậy là hữu nó không còn đó.
Hữu diệt có nghĩa rằng là: Những gì mà chúng ta sở hữu nó như
là tài sản, của cải, vật chất, danh lợi, gia đình, cha mẹ, anh em, dòng họ
những cái này lỡ nó có bị hoại diệt, nó có bị mất mát mà chúng ta không có bị
nó tác động, chi phối, không có làm cho chúng ta bị đau khổ, lo lắng, bất an
trong cái hoàn cảnh nhân quả như vậy thì đó là hữu nó diệt đó. Hoặc là khi mà cái
thân của chúng ta nó có bị bệnh, nó có bị cảm thọ đau nhức trên cái thân này mà
chúng ta không còn bị nó tác động, chi phối nữa thì đó cũng là hữu diệt đó.
Hoặc là cái thân này nó có chết đi, ta cũng không còn sợ hãi, lo lắng trước cái
thân nhân quả này, trước cái sự vô thường này thì đó là hữu nó diệt đó. Và khi
hữu nó không còn thì sanh nó diệt luôn rồi.
Đó thì như vậy rằng thế giới của duyên hợp khi mà nó có Minh thì
lần lượt các duyên còn lại tự nó sụp đổ hết trơn. Nhưng mà với điều kiện phải có
Minh nha. Cái Minh nó là chủ đạo cho các duyên còn lại, nếu mà mình không có
Minh thì các duyên còn lại nó sống trong cái chấp thủ của nó hết, dính mắc của
nó từ đó nó tạo nên thế giới duyên hợp tái sinh luân hồi sinh tử đó.
Nói chung là muốn để phá tất cả các duyên trên cái 12 nhân duyên,
đầu tiên chúng ta phải có Minh rồi, mà muốn có Minh là chúng ta phải giác ngộ
ra cái 4 chân lý Tứ diệu đế của Phật. Nên từ nào tới giờ người ta hiểu rằng
muốn có Minh thì mình phải tu chứng, mình mới có Minh phải không. Người ta đã
tưởng tri cái điều này. Trong khi cái Minh đức Phật có dạy chúng ta rồi. Đức
Phật nói rằng chúng ta phải giác ngộ ra cái chân lý, thì nó có 4 cái điều
kiện: giác ngộ Chân lý, hộ trì Chân lý, Chân lý được hộ trì và chứng đạt
Chân lý. Cho nên cái chân lý này đức Phật đã chứng và Ngài đã dạy rồi.
Làm sao chúng ta phải giác ngộ ra, khi chúng ta giác ngộ ra chân
lý Tứ diệu đế này là chúng ta đã có Minh rồi, chứ đâu cần mình phải tu tập,
mình phải chứng đạo, mình có thiền định tam Minh rồi mình mới có cái Minh này.
Cho nên từ nào giờ người ta tưởng tri ra cái Minh, cái Minh trong cái 12 nhân
duyên. Trong khi những cái pháp mà Phật dạy mình nó thuộc về những cái pháp
dành cho những con người trên thế gian này, bất luận ai, miễn là người ta có trí,
người ta có giác ngộ ra cái Chánh pháp của Phật, từ đó người ta sống theo cái
Chánh pháp này. Từ ngay nơi cái hiện tại ấy là nó có giải thoát liền. Chính vì
lý do đó mà Phật dạy chúng ta là “Pháp ta thiết thực, hiện tại, không có
thời, gian đến để mà thấy, có quả tức thời” là ý nghĩa đó đó. Có nghĩa là
khi mình đã giác ngộ ra chân lý Tứ diệu đế này thì thế giới 12 nhân duyên này
tự nó sụp đổ hết trơn. Nó sẽ chấm dứt hoàn toàn luôn, thế giới đau khổ nó sẽ
dừng lại luôn.
Thí dụ bây giờ dù chúng ta còn sống trong cái môi trường nhân quả
chứ, mình vẫn có bị bệnh tật, mình có tai nạn, mình có rủi ro, mọi cái điều
kiện nhân quả xấu nó đang xảy ra, tác động xung quanh mình. Nhưng mà do chúng
ta đã giác ngộ ra bốn Chân lý như thật, mình thấy được sự thật của khổ, mình
thấy được sự thật nguyên nhân của khổ, mình thấy được trạng thái diệt khổ. Mà
khi chúng ta đã thấy được cái sự thật này như vậy thì ngay đó cái chấp thủ, cái
lầm chấp cái Vô Minh mình nó diệt, thì ngay đó cái thế giới duyên hợp đau khổ
nó sụp đổ tức khắc liền dù cho cái thân nhân quả của chúng ta nó đang có bị
bệnh tật như vậy, nhưng mà nó dừng lại luôn đó, thì ngay đó mình tương ưng
trong cái trạng thái Niết Bàn luôn.
Cho nên ai mà đã giác ngộ cái thế giới 12 nhân duyên này thì cái
người ấy đã gõ vào cái cửa bất tử rồi. Cho nên cái sự tu tập của mình nó không
có không gian và thời gian. Khi mà chúng ta đã giác ngộ ra cái chân lý Tứ diệu
đế rồi chúng ta giác ngộ ra thế giới 12 nhân duyên này và chúng ta sẽ được giải
thoát từng ngày, từng giờ trên cái trí tuệ, trên cái sự giác ngộ này chứ không
phải chúng ta phải chờ mình tu tập để mình chứng thiền định, mình có trí tuệ
tam Minh, để mình mới chứng được cái thế giới 12 nhân duyên để mình có Minh, mà
cái Minh này Đức Phật đã dậy chúng ta rồi.
Phật tử hỏi: Như vậy thưa Thầy, cái khi mà mình thông hiểu, thông
suốt và hành trì theo nó mà không có để cho mình đau khổ thì cái này cũng như
là mình gọi Pháp trí và Tùy trí phải không Thầy?
Cái Pháp trí ở đây thì mình hiểu rằng chúng ta đã giác ngộ ra cái
Chân lý. Thì trong kinh đức Phật dạy rằng: Khi mà một người nghe Đức Phật
giảng về bốn cái sự thật chân lý này, họ đã giác ngộ ra cái chân lý này như
thật thì ngay đó họ đã chứng được Pháp nhãn thanh tịnh, gọi là Pháp trí đó phải
không - Pháp nhãn thanh tịnh. Và khi vị này đã chứng được Pháp nhãn thanh tịnh
thì ngay cái hiện tại ấy vị này đã ly trần vô cấu rồi. Có nghĩa rằng cái tham,
sân, si, mạn, nghi của mình nó muội lược rồi. Khi mà nó giác ngộ ra cái sự
thật này thì thế giới của tham, sân, si - gọi là thế giới của ma đó, từ từ nó
sẽ lìa hết. Mà khi nó đã ly trần vô cấu rồi, cái gì sinh ra thì cái ấy tự
diệt. Có nghĩa rằng là khi tâm mình nó thanh tịnh rồi, mình có trí tuệ rồi thì
những cái nhân quả, những cái hành nghiệp của mình và của chúng sinh khi mà nó sinh
ra thì chúng ta hiểu nó như thật, từ đó chúng ta không có tham đắm, chúng ta
không có chấp thủ nó, ngay đó nó tự diệt rồi. Cho nên Đức Phật có nói “Các
pháp tự duyên sinh, các pháp tự duyên diệt”, bản chất của các pháp nó không
có tự ngã. Mà các pháp nó có tự ngã là do chúng ta Vô Minh, chúng ta chấp thủ
vào các pháp ấy mà nó có tự ngã. Cho nên khi chúng ta đã giác ngộ ra bốn chân
lý Tứ diệu đế này như thật thì ngay đó là các pháp mà chúng ta đang sống nó sẽ
diệt hết à, nó không còn tự ngã nữa, phải không?
Mặc dù mình đang sống với mọi người như vậy, nhưng mà trong tâm
mình nó vẫn biết rằng nó là pháp hữu vi, là vô thường, nó không có pháp nào là
ta, là của ta, là tự ngã của ta. Có nghĩa rằng là mọi hiện tượng nhân quả, mình
sống chung với mọi người nó không có thực ngã của nó. Nó không có tự ngã, và
khi tâm mình nó hiểu biết sự thật như vậy thì ngay đó mình chứng được Pháp nhãn
thanh tịnh đó. Trong kinh Đức Phật gọi rằng Pháp nhãn thanh tịnh hoặc là Pháp
trí, hoăc là Minh giải thoá. Minh giải thoát cũng là Pháp trí luôn đó hoặc là
Tuệ giải thoát nó cũng là Pháp trí luôn, nó nằm ở cái chỗ là Minh hết đó, nhưng
mà nó thể hiện qua mỗi danh từ nó khác nhau.
Đó, thí dụ bây giờ khi mà mình nghe đức Phật giảng một cái bài
pháp, rồi mình giác ngộ ra bốn sự thật chân lý thì ngay đó mình chứng được Pháp
nhãn thanh tịnh. Rồi hằng ngày mình sống với mọi pháp, mình sống với các pháp
đang tác động xung quanh mình từ đó mình hiểu nó như thật đây là khổ, đây là
nguyên nhân của khổ - đó là Tuệ giải thoát đó. Tuệ giải thoát có nghĩa rằng là
mình tư duy, mình hiểu biết sự thật của các pháp như thật gọi là Tuệ giải
thoát. Còn mình giác ngộ được chân lý nó gọi là mình chứng được Pháp nhãn
thanh tịnh. Còn Minh giải thoát có nghĩa rằng là mình thấy được thế giới
duyên hợp của mười hai nhân duyên, các pháp đều là vô thường, không có pháp nào
là ta, là của ta, là bản ngã của ta. Do hiểu biết như vậy mình có được cái Minh
giải thoát này.
Nói chung rằng là nó đều hướng đến chỗ là diệt đế Niết Bàn hết.
Cái trí tuệ của mình nó thể hiện qua mọi sự hiểu biết khác nhau, nhưng mà nó
đều hướng đến cái chỗ là diệt đế Niết Bàn. Cho nên là những cái điều mà Phật
dạy chúng ta khi mà tu tập, khi mà sống với cái đời sống phạm hạnh này là nhằm
nó hướng đến là diệt đế, nó hướng đến là diệt cái khổ và nguyên nhân của khổ để
từ đó mà chúng ta đoạn dứt cái nguyên nhân, cái nguồn gốc luân hồi sinh tử của
mình.Từ đó mà chúng ta có cái diệt đế. Từ đó mà chúng ta có trạng thái Niết Bàn
ngay cái hiện tại này luôn.
Cho nên là khi mà chúng ta đã giác ngộ ra cái thế giới 12 nhân
duyên này thì chúng ta sẽ được tu tập và giải thoát từng ngày, từng giờ trong
cuộc sống này, với điều kiện chúng ta phải giác ngộ ra chân lý nha. Mà nếu
chúng ta không có giác ngộ ra cái chân lý Tứ diệu đế này là chúng ta không có
Minh giải thoát đâu, chúng ta không có được pháp trí đâu, chúng ta không có
được tuệ giải thoát đâu.
Cho nên từ nào giờ người ta hiểu không có thông suốt về cái thế
giới 12 nhân duyên này và người ta không có thông suốt về cái Tứ diệu đế này và
người ta cho rằng muốn có Minh mình phải tu tập, ráng tu tập. Từ cái chỗ
hiểu sai cái chân lý diệt đế này, sai cái thế giới 12 nhân duyên này.
Không có thông suốt về Tứ diệu đế này mà từ đó con người ta phải
ráng tu tập. Họ ráng tu rất là nhiều đó, từ đó mà họ chế ra nhiều
cái pháp môn tu, từ đó mà nó ức chế đi. Con người ta ráng tu để mong
mình có thiền định, có tam Minh để mình chứng được trí tuệ này thì cuối cùng
người ta đã tưởng tri Niết Bàn. Cho nên Đức Phật có nói đó “chúng sinh là tưởng
tri Niết Bàn, còn Như Lai là liễu tri Niết Bàn”. Liễu tri niết bàn có nghĩa là
Phật dạy chúng ta mình giác ngộ ra sự thật Pháp nó như thật, rồi từ đó chúng ta
đừng có hành động theo các dục của nó. Từ đó mà nó diệt các dục của mình thì
ngay đó là niết bàn liền đó. Chứ không phải là chờ tu để có thiền định, có tam
Minh, có thần thông, có được năng lực để mà chúng ta có Minh này. Do người ta
không có hiểu chỗ này như vậy mà chúng sinh sống trong là tưởng tri.
Phật tử hỏi: Như vậy thì cái sự chứng đạo của
một người bằng cái Pháp trí và cái Tùy trí, đạo đức của cái người đó, để đưa họ
đến cái sự giải thoát. Giải thoát là chứng đạo rồi phải không thưa Thầy?
Đúng rồi, giải thoát là chứng đạo liền. Cho nên ngày xưa người ta
chứng đạo là người ta hiểu biết, người ta giác ngộ bốn cái chân lý như thật, vì
vậy mà cuộc đời của đức Phật - Ngài độ chúng sinh được nhiều người lý do đó.
Tại vì Ngài giảng cái chân lý này quá rõ đi, nó không có mơ hồ, trừu tượng, nó
rất là thực tế, nó rất là căn bản. Sau này người ta đã tưởng giải ra bốn chân
lý Tứ diệu đế này, người ta hiểu rất là sai, từ đó mà người ta tu tập nó không
giải thoát được. Chứ thật sự, vào thời đức Phật khi mà Ngài giảng được cái chân
lý này thì người ta giác ngộ thì ngay đó người ta chứng đạo.
Thí dụ bây giờ mình nghe, khi mà đức Phật – Ngài về thăm Vua cha,
Ngài giảng cho Vua cha cái bài pháp đầu tiên thì ngay đó Vua cha đã chứng được
Pháp nhãn thanh tịnh, chứng được quả dự lưu rồi, có thấy không. Khi nghe pháp
và hiểu được pháp, xả được tâm ly dục, ly ác pháp nó đã chứng đạo rồi - chứng
cái quả đầu tiên.
Và cái lần thăm thứ hai là đức Phật về, đức Phật giảng cái bài
pháp và sau đó Vua cha cũng thông suốt và giác ngộ ra cái tri kiến giải thoát
của mình. Từ đó mà Vua cha đã xả tiếp tục cái tâm của mình, từ đó mà chứng được
cái quả Nhất lai.
Và cái lần giảng thứ ba đức Phật cũng giảng một cái bài pháp, Vua
cha cũng giác ngộ ra, thông suốt các pháp như thật từ đó mà Vua cha sống với
chân lý này. Từ đó mà nó diệt ngã, xả tâm, ly dục, ly ác pháp mà Vua cha chứng
được cái quả Bất lai, chỉ cho cái quả là ngay cái hiện tại nhập Niết Bàn, hóa
sinh niết bàn ngay tại cuộc sống này.
Và cái lần thăm cuối cùng đức Phật về thăm Vua cha, khi mà giảng
cái bài pháp cuối cùng là Vua cha chứng được cái quả A la hán luôn.
Khi mà nghe được pháp của Phật từng cái giai đoạn như vậy mà đức
Phật đã hướng cho chúng đệ tử của Ngài lần lượt nhận ra cái Chánh pháp. Nhận ra
được cái Pháp nhãn thanh tịnh. Nhận ra được cái Tùy trí và Pháp trí. Nhận ra
cái Tuệ giải thoát từ đó các Ngài hướng đến đoạn diệt các chấp thủ, các Vô Minh
của mình. Từ đó mà chứng được các quả từ quả Dự lưu trên đến quả Nhất lai, cái
quả Bất lai và cái quả A la hán luôn.
Như vậy rằng, bốn cái quả này nó mới định hướng cho chúng ta hướng
đến diệt đế Niết Bàn. Chỉ cần nghe pháp, hiểu được pháp, thông suốt rồi hằng
ngày mình hành trì cái đời sống phạm hạnh, đừng để vi phạm bất cứ lỗi lầm nhỏ
nhặt nào, trên cái đời sống phạm hạnh ấy, sự hiểu biết chánh pháp ấy chúng ta
lần lượt chứng đạt được bốn Thánh quả này. Rồi từ đó hướng đến con đường chấm
dứt luân hồi sinh tử ngay cái đời sống hiện tại này luôn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét